Theo Báo cáo Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 cho thấy, cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 phụ nữ (gần 63%) bị một hoặc hơn một hình thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần và bạo lực kinh tế cũng như kiểm soát hành vi do chồng gây ra trong cuộc đời và gần 32% phụ nữ bị bạo lực trong 12 tháng gần nhất. Bạo lực gia đình khiến nạn nhân phải chịu những hậu quả nghiêm trọng về thể chất và di chứng nặng nề về tinh thần. Vậy nhưng, phần lớn các nạn nhân vẫn đang cam chịu sống chung với người có hành vi bạo lực. Bởi nếu ra khỏi nhà, họ sẽ rất ít có cơ hội trở lại.
Tại Điểm c Khoản 1 Điều 20 Luật PCBLGĐ hiện hành quy định điều kiện để áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc là “Người có hành vi BLGĐ và nạn nhân BLGĐ có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc”. Song, Luật không quy định rõ ai là người phải ra khỏi nhà, vì thế khi áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc thì người phải ra khỏi nhà là nạn nhân bạo lực gia đình.
Trường hợp của chị Vũ Thị P tại một huyện ngoại thành Hà Nội là một ví dụ. Chị bị người chồng bạo lực đến mức phải nhập viện chỉ vì lý do chị không đồng ý kí vào đơn vay tiền. Sau khi được điều trị tại bệnh viện, chị và con phải tạm lánh ở nơi khác. Sáu tháng sau, mẹ con chị trở về thì căn nhà đã bị người chồng bán. Vì thế, hai mẹ con chị phải đi thuê nhà, lần hồi mưu sinh với hai bàn tay trắng.
Theo Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật PCBLGĐ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết, trong gia đoạn này đã xảy ra 297.498 vụ bạo lực gia đình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã thực hiện biện pháp cấm tiếp xúc 4.200 vụ. Báo cáo cũng chỉ ra một trong những bất cập là việc đưa nạn nhân ra khỏi nhà khi thực hiện biện pháp cấm tiếp xúc vô hình đã tạo điều kiện thuận lợi cho người có hành vi bạo lực chiếm đoạt tài sản chung của gia đình.
Áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc là một giải pháp mạnh, ngăn chặn tức thời những nguy cơ có thể làm tổn hại đến sức khỏe, thậm chí tính mạng của nạn nhân. Tuy nhiên, cách thức áp dụng nếu không đúng có thể làm mất đi giá trị của biện pháp này. Kinh nghiệm của một số nước như Úc cho phép quy trình xét xử ngoại lệ trong xét xử các vụ bạo lực gia đình, nạn nhân được ở tại nhà và người gây bạo lực bị yêu cầu tìm nơi ở khác nhằm giúp nạn nhân được nhận những hỗ trợ tốt nhất từ cộng đồng cũng như đảm bảo cơ hội học tập và chăm sóc cho con cái của họ (Quốc hội Úc, 2011).
Việc sửa đổi bất cập trong quy định về điều kiện chỗ ở sẽ tăng cường cơ hội trong bảo vệ khẩn cấp nạn nhân bạo lực gia đình. Mặt khác, ngăn chặn những đối tượng cố tình lợi dụng chính sách để thực hiên hành vi bạo lực nhằm chiếm đoạt tài sản như trường hợp của chị P ở một huyện ngoại thành Hà Nội.
Mặt khác, các thủ tục hành chính và các điều kiện khác để cơ quan có thẩm quyền làm cơ sở ra quyết định cấm tiếp xúc cũng bó buộc sự chủ động khi áp dụng biện pháp bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình. Có thể nói, nếu Tòa án áp dụng biện cấm tiếp xúc giữa bị đơn và nguyên đơn trong quá trình xét xử án hôn nhân gia đình có dấu hiệu của bạo lực gia đình thì đã không xảy ra vụ người chồng đã đâm chết vợ tại Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Thủ tục hành chính trong áp dụng biện pháp bảo vệ khẩn cấp nạn nhân bạo lực gia đình không chỉ cản trở nạn nhân tiếp cận dịch vụ bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền mà còn khiến chính những người thực thi công vụ cũng bị động trong áp dụng biện pháp bảo vệ. Vì vậy, quy định về điều kiện phải có đơn cũng nên xem xét sửa đổi để tăng cơ hội bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình. Cách xử lý vụ việc bạo lực gia đình của Úc có thể là một kinh nghiệm hay cho chúng ta tham khảo trong sửa đổi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình sắp tới.
Tại dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi) đã bổ sung một biện pháp mới ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình là cấm tiếp xúc do cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Có thể thấy rằng, biện pháp này là có hiệu quả trong việc ngăn chăn, phòng ngừa các hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, đây là quy định liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân, cho nên cần được đánh giá kỹ về tính hợp lý, cơ chế bảo đảm thực hiện, tính khả thi, sự thống nhất với quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhất là về điều kiện, thẩm quyền, thời gian áp dụng biện pháp này, và cơ quan có trách nhiệm giám sát việc thực thi, tránh lạm dụng, lợi dụng khi áp dụng biện pháp này, để biện pháp cấm tiếp xúc thực sự đạt hiệu quả cao trong quá trình áp dụng thực tiễn khi Luật được thông qua.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình mới sau khi có hiệu lực thi hành, chúng ta hy vọng những bất cập trong áp dụng biện pháp bảo vệ khẩn người bị bạo lực gia đình và xử lý người có hành vi bạo lực gia đình được sửa đổi. Người bị bạo lực có nhiều cơ hội tiếp cận dịch vụ công lý hơn, còn người gây bạo lực bị xử lý nghiêm minh, đảm bảo tính răn đe, giáo dục hơn.