Thủy chung, nghĩa tình trong đời sống vợ chồng không chỉ được quy định trong các văn bản Luật hôn nhân và gia đình, mà còn được đúc kết trong ca dao Việt Nam, trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống và được lưu lại cho thế hệ mai sau bài học về hạnh phúc gia đình, cái nôi của mái ấm tình yêu:
“Không chồng đi dọc đi ngang/ Có chồng thì cứ một đàng mà đi”.
Hoặc: “Đói lòng ăn nắm lá sung/ Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”.
“Người ta thích lấy nhiều chồng/ Tôi chỉ thích lấy một ông thật bền/ Thật bền như tượng đồng đen/ Trăm năm, quyết với cùng em một lòng”.
“Nhà tường mà lợp tranh mây/ Thân anh hai vợ như dây buộc mình”.
“Đạo nào bằng đạo phu thê/ Tay ấp, má kề, sinh tử có nhau”.
“Thương nhau tạc một chữ tình/ Trăm năm thề quyết bạn mình có nhau”.
Hoặc: “Thương nhau gặp khúc sông vơi/ Khó khăn, gian hiểm chẳng rời thủy chung”.
“Mưa rơi gió tạt vô thành/ Đôi ta chồng vợ, ai dỗ dành đừng xiêu”.
Hoặc: “Đôi ta như rượu với nem/ Đang say ngây ngất, ai dèm chớ xa”.
Trăm năm lòng gắn dạ ghi/ Nào ai thay nút đổi khuy cũng đừng.
Hoặc: “Trăng tròn chỉ có đêm rằm/ Tình ta tháng tháng, năm năm vẫn tròn”.
“Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ Bán nguyệt cho nàng rửa chân”
“Thuận vợ, thuận chồng tát biển đông cũng cạn”.
“Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon”.
“Làm trai lấy được vợ hiền/ Như cầm đồng tiền mua được của ngon”.
Hoặc: “Phận gái lấy được chồng khôn/ Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng”.
“Ước gì anh hóa ra hoa/ Để em nâng lấy rồi mà cài khăn/ Ước gì anh hóa ra chăn/ Để cho em đắp, em lăn, em nằm”.
“Anh đã có vợ con chưa?/ Mà anh ăn nói, đón đưa ngọt ngào/ Mẹ già anh ở nơi nao?/ Để em tìm vào, hầu hạ thay anh”.