Theo điều 2 khoản 1 của Luật hòa giải cơ sở ban hành ngày 20/6/2013: “Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này”.
Công tác hoà giải cơ sở là việc Hoà giải viên vận dụng pháp luật, kiến thức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam để giải thích, hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ ở cơ sở. Hòa giải cơ sở được thực hiện thông qua hoạt động của Tổ hòa giải.
Tổ hòa giải là tổ chức quần chúng của nhân dân được thành lập tại cơ sở, thực hiện hòa giải tại chỗ, kịp thời, thường xuyên các mâu thuẫn, vi phạm pháp luật và tranh chấp trong nhân dân, chủ động phòng ngừa vi phạm pháp luật và góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân”.
Nguyên tắc hòa giải trong phòng, chống bạo lực gia đình. Điều 12 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về nguyên tắc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình:
– Kịp thời, chủ động, kiên trì;
– Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam;
– Tôn trọng sự tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên;
– Khách quan, công minh, có lý, có tình;
– Giữ bí mật thông tin đời tư của các bên;
– Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
– Không hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình quy định tại Điều 14 và Điều 15 của Luật này trong những trường hợp sau đây:
+ Vụ việc thuộc tội phạm hình sự, trừ trường hợp người bị hại yêu cầu không xử lý theo quy định của pháp luật hình sự;
+ Vụ việc thuộc hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính.