Giá trị hạnh phúc được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, trong đó gia đình là tế bào, là nền tảng vững chắc để thực hiện mục tiêu; Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đặt ra các mục tiêu cụ thể về “gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
Nhận thức được tầm quan trọng của giá trị hạnh phúc trong gia đình, Bộ VHTTDL đã chỉ đạo xây dựng thí điểm nghiên cứu Bộ Chỉ số gia đình hạnh phúc và đã tổ chức thí điểm Bộ Chỉ số gia đình hạnh phúc (FHI) với các chỉ số đo lường và đánh giá mức độ hài lòng của các thành viên trong gia đình về 5 yếu tố chính gồm: Quan hệ gắn bó giữa các thành viên; Điều kiện vật chất; Sức khỏe thể chất và tinh thần; Môi trường sống; Vị thế xã hội của gia đình.
Bộ VHTTDL thí điểm tại thành phố Hải Phòng và TP.HCM từ năm 2025-2030. Cuối giai đoạn thí điểm, Bộ VHTTDL sẽ tổng kết và đề xuất thực hiện trên toàn quốc. Mục đích nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chỉ thị số 06-CT/TW của Ban Bí thư, đó là:
Các mô hình “gia đình hạnh phúc”: Nhiều địa phương đã triển khai thí điểm Bộ Chỉ số gia đình hạnh phúc nhằm cụ thể hóa các tiêu chí (văn hóa, kinh tế, giáo dục…) để đánh giá và thúc đẩy hạnh phúc gia đình.
Cải thiện chất lượng cuộc sống: Nhiều hộ gia đình đã tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nước sạch), chất lượng cuộc sống được nâng cao, góp phần làm nên “no ấm” của gia đình – nền tảng của hạnh phúc. Chất lượng cuộc sống đó là các gia đình Việt Nam ngày càng cải thiện về vật chất và tinh thần, quan tâm hơn đến giáo dục, y tế, bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình. Người dân tiếp cận tốt hơn các dịch vụ y tế, giáo dục, thông tin, nước sạch… từ đó cải thiện sức khỏe, trình độ dân trí, giảm gánh nặng mưu sinh, tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình chăm sóc, quan tâm lẫn nhau tốt hơn.
Giảm nghèo bền vững: Kinh tế hộ gia đình phát triển, nhiều hộ vươn lên làm giàu chính đáng, đóng góp vào thu nhập quốc dân và sự ổn định kinh tế gia đình, từ đó giảm áp lực và tăng cường hạnh phúc gia đình.
Chỉ số hạnh phúc quốc gia tăng: Các báo cáo gần đây cho thấy chỉ số hạnh phúc của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể, một phần nhờ vào sự phát triển kinh tế và hạ tầng.
An sinh xã hội và môi trường sống: Hạ tầng được đầu tư (nhất là hạ tầng đô thị, nông thôn) góp phần cải thiện môi trường sống, giảm thiểu rủi ro thiên tai, dịch bệnh, tạo môi trường an toàn, văn minh hơn cho các gia đình.
Phát triển kinh tế là nền tảng: Nghị quyết thúc đẩy phát triển hạ tầng giao thông, năng lượng, thủy lợi, công nghệ thông tin… nhằm tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Kinh tế gia đình phát triển (no ấm) được coi là cơ sở vững chắc để xây dựng gia đình hạnh phúc.
Tăng cường sự tham gia của các tổ chức: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các tổ chức khác đã tích cực triển khai nhiều mô hình, hoạt động thiết thực như “gia đình hạnh phúc”, “phòng, chống bạo lực gia đình”, “bình đẳng giới”.
Giá trị “văn minh”: Thượng tôn pháp luật và ứng xử văn hóa
Việc đánh giá kết quả đạt được giá trị “văn minh” trong gia đình theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII chủ yếu dựa trên các chuyển biến tích cực trong thực tiễn. “văn minh, hiện đại” bao hàm sự kết hợp hài hòa giữa việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp với việc tiếp thu và áp dụng những tiến bộ của thời đại mới. Nếp sống văn minh thể hiện qua các khía cạnh chính sau: Thực hiện nếp sống văn minh trong hôn nhân, tang lễ, lễ hội, loại bỏ các hủ tục lạc hậu; xây dựng môi trường gia đình lành mạnh, có kỷ cương, tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội.
Về hành vi và chuẩn mực ứng xử
Đại đa số các gia đình đã thể hiện sự tôn trọng pháp luật và quy tắc ứng xử chung; văn minh, lịch sự; bình đẳng và nhân ái; đạo đức công dân: Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, tuân thủ các quy định, nội quy tại nơi công cộng, nơi làm việc. Có thái độ hòa nhã, tôn trọng người khác, sử dụng ngôn từ chuẩn mực, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Đề cao giá trị con người, tôn trọng sự đa dạng, không phân biệt đối xử, sẵn sàng giúp đỡ cộng đồng. Sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Về lối sống và sinh hoạt
Đại đa số gia đình và thành viên gia đình đã ý thức và có lối sống lành mạnh, khoa học; sử dụng khá thành thạo công nghệ; tiết kiệm và bảo vệ môi trường; tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ, bài trừ hủ tục. Chú trọng rèn luyện sức khỏe thể chất và tinh thần (tập thể dục, dinh dưỡng hợp lý, giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường sống). Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin vào đời sống hằng ngày để nâng cao hiệu suất công việc và chất lượng cuộc sống. Thực hành lối sống xanh, hạn chế rác thải nhựa, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
Về tư duy và nhận thức
Có tư duy phản biện và sáng tạo; tinh thần ham học; lòng yêu nước, tự hào dân tộc; hòa nhập quốc tế: Có khả năng phân tích, đánh giá thông tin một cách khách quan và đưa ra những giải pháp sáng tạo cho các vấn đề trong cuộc sống. Luôn chủ động cập nhật kiến thức mới, nâng cao trình độ hiểu biết để bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của thế giới. Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập. Hiểu biết về các nền văn hóa khác, sẵn sàng giao lưu, học hỏi và hợp tác trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nói tóm lại, nếp sống văn hóa văn minh, hiện đại là nếp sống hướng tới sự phát triển toàn diện của con người, đảm bảo sự hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa truyền thống và hiện đại, nhằm xây dựng một xã hội tiến bộ và bền vững.
