Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình: Vợ hoặc chồng hoặc cả vợ chồng đều có quyền yêu cầu Tòa án cho chấm dứt quan hệ hôn nhân khi có lý do chính đáng; vợ chồng không được có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau; cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình: Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng…
Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật: Cả vợ và chồng cùng nhau quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động , công tác, thu nhập và nuôi dạy con cái của các cặp vợ chồng.
Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển: Nhà nước và xã hội không thừa nhận phân biệt đối xử giữa các con; cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt.
Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình: Các thành viên cùng sống chung trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp công sức, tiền và tài sản khác để duy trì đời sống chung phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình.